Lễ ra mắt ứng dụng D.Health
Bức tranh dịch tễ học nhiễm HIV trong những năm vừa qua cho thấy, tỷ lệ nhiễm HIV đang có dấu hiệu tăng mạnh trong nhóm nam quan hệ tình dục đồng giới nam (MSM ). Để ứng phó với tình hình trên, cục phòng, chống HIV/AIDS đã triển khai các mô hình can thiệp nhằm giảm tình trạng lây nhiễm HIV trong nhóm MSM trong cả nước, trong đó có Khánh Hòa.
Tại việt nam, hiện tại chưa có hướng dẫn can thiệp giảm tác hại toàn diện cho MSM, tuy nhiên tại một số tỉnh thành phố đã triển khai các gói dịch vụ can thiệp cho nhóm MSM bao gồm các hoạt động về truyền thông thay đổi hành vi, cấp phát vật dụng can thiệp như BCS, chất bôi trơn, khám điều trị các bệnh lây nhiễm qua đường tình dục (STIs), tư vấn xét nghiệm HIV tự nguyện. Hoạt động dự phòng HIV và STIs cho nhóm MSM tại việt nam được thực hiện chủ yếu thông qua các chương trình, dự án phòng, chống HIV/AIDS do các tổ chức NGO Quốc tế tài trợ.
Chiến lược quốc gia phòng, chống HIV/AIDS đến năm 2020 và tầm nhìn 2030 đã xác định nhóm MSM nói chung và nhóm người bán dâm đồng giới nói riêng là những đối tượng cần được ưu tiên trong can thiệp dự phòng HIV/STIs. Trên thế giới, đã có rất nhiều mô hình can thiệp được triển khai nhằm tăng cường dự phòng lây nhiễm HIV/STIs cho nhóm đối tượng này, như mô hình giáo dục đồng đẳng (Peer-education), mô hình phổ biến quan điểm thông qua thủ lĩnh (POL), mô hình NAZ, mô hình 3MV (Many men, many voice) hay mô hình tiếp thị xã hội.
Khách mời sự kiện cài đặt ứng dụng D.Health (nam-nữ)
Tại Việt Nam, các mô hình can thiệp giảm tác hại cho nhóm MSM cũng được triển khai qua nhiều chương trình, dự án phòng, chống HIV/AIDS. Các mô hình can thiệp giảm tác hại cho nhóm MSM bao gồm các mô hình tiếp cận truyền thống, tiếp cận theo mạng lưới, trực tuyến, mô hình hỗ trợ liên tục và mô hình chi trả theo hiệu suất.
Mô hình truyền thống
Mục tiêu của mô hình truyền thống là tiếp cận với quần thể nguy cơ cao để cung cấp thông điệp dự phòng lây nhiễm và giới thiệu chuyển gửi đến dịch vụ tư vấn xét nghiệm HIV tự nguyện và các dịch vụ khác. Hoạt động mô hình được triển khai thông qua nhân viên tiếp cận cộng đồng với các hoạt động như truyền thông thay đổi hành vi, hướng dẫn kỹ năng tình dục an toàn, phát vật dụng hỗ trợ và tài liệu truyền thông chuyên sâu đồng thời kết nối khách hàng đến các dịch vụ tư vấn, chăm sóc, hỗ trợ và điều trị HIV/AIDS , Lao/HIV, khám và điều trị STIs và các dịch vụ dẵn có khác tại địa phương.
Mô hình tiếp cận theo mạng lưới
Mô hình tiếp cận theo mạng lưới là một phương pháp tiếp cận các nhóm đích có hành vi nguy cơ cao dựa vào mạng lưới sẵn có của họ để kết nối với các dịch vụ dự phòng và chăm sóc HIV/AIDS nhằm tăng cường việc tiếp cận với đối tượng có nguy cơ cao và thực hiện chuyển gửi đến các dịch vụ chăm sóc và điều trị dự phòng phơi nhiễm HIV, điều trị ARV cho các đối tượng dương tính với HIV. Các “hạt giống” được tuyển chọn thông qua một số ít nhân viên tiếp cận cộng đồng mà tiêu chí là họ có mối quan hệ thân thiết (mạng lưới) với các khách hàng tiềm năng (trong giới), và họ sẽ tiếp cận, giới thiệu những khách hàng có nguy cơ đến sử dụng các dịch vụ tư vấn xét nghiệm tại các phòng khám OPC và mỗi khách hàng tham gia dịch vụ sẽ được hỗ trợ kinh phí đi lại để khuyến khích khách hàng.
Mô hình hỗ trợ liên tục
Mô hình này được thiết kế nhằm tiếp cận với quần thể đối tượng can thiệp, theo dấu và hỗ trợ thường xuyên khách hàng, cung cấp thông điệp dự phòng lây nhiễm HIV, chuyển gửi đến các dịch vụ tư vấn xét nghiệm HIV tự nguyện, kết nối đến các tổ chức CBO để tham vấn xét nghiệm phản ứng nhanh với HIV. Mô hình này cung cấp hỗ trợ liên tục từ dự phòng cho đến chăm sóc và điều trị, tiếp tục theo dấu, hỗ trợ nhằm đảm bảo khách hàng duy trì các hành vi an toàn, tiếp cận với các dịch vụ cần thiết, đặc biệt là các dịch vụ chuyển tiếp trong điều trị dự phòng HIV/AIDS.
Mô hình chi trả dựa trên hiệu suất
Được thực hiện dựa vào mạng lưới nhân viên tiếp cận cộng đồng để tiếp cận, sàng lọc, đánh giá nhu cầu, phân nhóm (đối tượng đích dựa trên nhu cầu) và chuyển gửi khách hàng tới các dịch vụ liên quan tới HIV. Kết quả triển khai mô hình tại các tỉnh, thành phố trong những năm qua cho thấy sự hiệu quả của mô hình này.
Mô hình tiếp cận trực tuyến
Hiện nay, mô hình này đang thể hiện tính ưu việt vì nhân viên tiếp cận cộng đồng không phải mất nhiều thời gian để trực tiếp xuống thực địa. Chỉ cần có máy tính, điện thoại thông minh nhân viên tiếp cận cộng đồng có thể dùng các mạng xã hội như zalo, facebook, twetter, blue để kết nối và tiếp cận đến quần thể MSM và bạn tình của họ để cung cấp thông tin về các chương trình can thiệp giảm hại dự phòng trước phơi nhiễm HIV đồng thời kết nối chuyển gửi đến các phòng khám, chăm sóc và điều trị nếu cần.
Việt Nam đã trải qua 30 năm phòng, chống HIV/AIDS với không ít những thăng trầm và đã gặt hái được những thành tựu to lớn, mang đến cho cộng đồng những lợi ích lớn lao. Đồng hành trên con đường này, là các tổ chức phi chính phủ, là các tổ chức xã hội và các tổ chức dựa vào cộng đồng (CBO) cùng nỗ lực làm việc và sáng tạo không ngừng nhằm mang lại cho khách hàng những dịch vụ thuận tiện, nhanh chóng và bảo mật.
Một trong những thành tựu to lớn ấy, không thể không kể đến sự ra đời của ứng dụng D.Health - Một ứng dụng nhằm đáp ứng sức khỏe cộng đồng trong thời đại kỹ thuật số được phát triển bởi Trung tâm nâng cao chất lượng cuộc sống (LIFE) cùng mạng lưới CBO trong dự án Tăng cường Kết nối Cộng đồng Phòng chống HIV phía nam do PEPFAR tài trợ thông qua USAID.
Thông qua ứng dụng mà khách hàng đã cài đặt trên điện thoại thông minh (Smart phone) khách hàng có thể tìm thấy tất cả các thông tin dịch vụ về xét nghiệm HIV; điều trị ARV, PrEP, PEP, các bệnh tình dục, lao viêm gan B, C; điều trị Methadone; tư vấn và điều trị nghiện chất; tư vấn sức khỏe tình dục; tư vấn sức khỏe tâm thần; tư vấn giảm kỳ thị, phân biệt đối xử... chỉ trong một ứng dụng. Ngoài ra, khách hàng có thể tự đánh giá nguy cơ mắc bệnh và nhân được gợi ý các dịch vụ, nơi cung cấp dịch vụ mà khách hàng quan tâm.
Thiên Bình